14 năm trôi qua, Giáo sư vẫn kiên quyết lựa chọn Tết Tây thay vì Tết Ta: “Thích cổ truyền là còn nghèo hoài”

14 năm trôi qua, Giáo sư vẫn kiên quyết lựa chọn Tết Tây thay vì Tết Ta: “Thích cổ truyền là còn nghèo hoài”
Đến thời điểm hiện tại, vị Giáo sư vẫn giữ nguyên quan điểm nên bỏ Tết Ta để tránh tình trạng người dân trì trệ, không hứng thú làm việc.

Cứ đến thời điểm cuối năm chuẩn bị bước sang năm mới, câu chuyện có nên bỏ tết ta và gộp chung “Tết Tây” lại được tranh cãi. Nói nôm na, “Tết Ta” là đón năm mới theo âm lịch và trở thành văn hóa truyền thống của người dân Việt Nam, còn “Tết Tây” là đón năm mới ngay ngày 1/1 như các nước phương Tây và nhiều nước phương Đông.

Sau 14 năm trình bày quan điểm nên bỏ Tết Ta, giáo sư Võ Tòng Xuân vẫn giữ nguyên quan điểm của mình. Cách đây vài tháng, giáo sư có cho rằng: “Ở Việt Nam ta, đã ăn tết Tây, ngày 31/12/2019 vừa rồi, tôi thấy nhiều nơi đốt pháo hoa, đếm ngược, làm lễ tất niên đón năm mới tưng bừng, như thế là ăn tết Tây rất lớn rồi. Rồi tới tết ta, mọi tục lệ lại tiếp tục, như thế rất tốn kém.

Tết ta tính ra đúng là từ ngày 30 tết tới hết ngày mùng 3, nhưng cứ để ý thì người dân Việt Nam đã ăn tết ta từ sau rằm tháng chạp (15/12). Công việc trì trệ, người dân uể oải, đường sá kẹt cứng… Đi đâu, có việc gì người ta cũng nói thôi lo ăn tết đã. Và người ta ăn tết ít nhất sau rằm tháng giêng.

Tôi ủng hộ chủ trương là, mình ăn tết Tây, nhưng đến tết ta không phải mình bỏ hẳn đi, mình vẫn kỷ niệm nhưng chỉ khoảng 3 ngày thôi. Thích cổ truyền, rồi tâm linh, thì mình vẫn nghèo hoài. Mình càng giữ cổ truyền thì mình càng giữ cái nghèo. Càng nghèo lại càng thích ăn nhậu”.

GS Võ Tòng Xuân: 'Tết có thể đi du lịch, không nhất thiết phải về sum vầy bên gia đình'

Giáo sư Tòng Xuân cho rằng việc bày tỏ lòng hiếu kính với cha mẹ có thể ở bất cứ lúc nào, không cần đợi đến ngày Tết cổ truyền.

Đây cũng không phải ý kiến duy nhất về việc bỏ Tết Ta và gộp chung đón năm mới với tết Tây bởi năm ngoái giáo sư Trương Nguyện Thành cũng từng gây tranh cãi khi đưa ra quan điểm về vấn đề này. Theo đó, ông cho rằng nên ăn Tết Ta ít ngày lại so với hiện nay. Vốn nhận là người lưu truyền nét đẹp truyền thống, giáo sư Nguyện Thành ủng hộ không bỏ Tết ta nhưng thay vào đó hãy rút ngắn chỉ tập trung trong 3 ngày và kéo dài thời gian nghỉ Tết Dương lịch.

“Chọn cách như vậy sẽ giúp kinh tế và hiệu quả công việc sẽ tốt hơn. Ngày nay người dân văn phòng hầu như có tâm lý nghỉ tết từ tết Tây đến tận tết ta. Khoảng thời gian giữa 2 cái tết này hầu như không làm việc, chỉ tiệc tùng nhậu nhẹt là chính. Vậy thì nên nghỉ tết ta ngắn lại để bắt đầu công việc sớm hơn”, GS Thành cho biết.

Nhìn vào tình hình thực tế lúc này, ý kiến của hai giáo sư bên trên không phải vô lý. Thời điểm nghỉ làm, đón năm mới đa phần được người Việt trưng dụng để ăn nhậu, hát karaoke rồi thậm chí ẩu đả rất phiền phức. Trong truyền thống, ngày Tết là dịp nghỉ ngơi sau một năm làm việc và dành thời gian cho bố mẹ, thầy cô như lời dạy “mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy” ý nói đây là thời gian dành tri ân những người nuôi nấng, dạy dỗ mỗi người. Tuy nhiên, tình hình xã hội ngày càng có nhiều biến tướng và tết cũng mất đi ý nghĩa truyền thống đẹp đẽ như xưa.

Chưa kể quan niệm “tháng giêng là tháng ăn chơi” nên nhiều người đổ đốn việc làm, công việc bê trễ và tâm lý của những ngày nghỉ còn dư âm khi đi làm trở lại. Tuy nhiên, một năm đầy biến động vừa rồi khiến nhiều người phải “ăn Tết” tận nửa năm nên hẳn nhiều chán ngán, lo sợ và lúc ấy mới cầu mong mọi chuyện nên như cũ: nghỉ tết vừa đủ để quay lại công việc.

Tuy nhiên, dù có biến tướng, có lai căng hay ngày càng tân tiến, hiện đại thì trong tâm thức của người Việt, tết cổ truyền là một điều khó có thể xóa bỏ, gần như thiêng liêng không thể đụng vào. Phải công nhận, có những tập tục đã ăn sâu, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác nên rất khó bỏ đi hay đưa ra quan điểm trái ngược.

Chỉ mong rằng, mọi người nếu đã ra sức phản đối bỏ tết ta với lý do muốn giữ gìn nét đẹp truyền thống của dân tộc thì phải sống đúng với điều ấy. Thay vì khăng khăng đòi giữ tết ta để ăn nhậu be bét, lái xe lạng lách hay trong tình trạng sử dụng rượu bia, rồi hát hò karaoke lớn tiếng, ẩu đả xô xát thì rõ ràng đã đi rất xa với ý nghĩa của ngày tết cổ truyền. Nếu đã bảo vệ để giữ nguyên nét đẹp ấy thì phải có ý thức, hiểu đúng và làm đúng trong những ngày thiêng liêng, đặc biệt này.

Từ nay, 7 trường hợp sẽ không được hưởng thừa kế nhà đất từ cha mẹ, dù là con ru:ộ:t

Có 7 trường hợp sẽ không được hưởng thừa kế nhà đất kể cả là con ruột.
Quyền thừa kế là gì?

Quyền thừa kế là Quyền để lại tài sản của mình cho người khác sau khi chết, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Bao gồm quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản cho người thừa kế theo pháp luật và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
thua-ke
Theo Điều 609 Bộ luật Dân sự 2015 quy định cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Người để lại di sản hoàn toàn có quyền chủ động đưa ra những ai có quyền được hưởng di chúc, mỗi người được hưởng bao nhiêu hoặc những ai bị truất quyền hưởng di chúc, dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản… mà không bị phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể khác.

Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào. Nếu một người chết để lại di chúc thì phải thực hiện việc dịch chuyển tài sản đến người có quyền được hưởng di sản thừa kế theo đúng ý chí của người lập di chúc. Việc hưởng di sản thừa kế theo pháp luật chỉ xảy ra nếu không có di chúc, di chúc không hợp pháp và các nguyên do khác phát sinh từ người thừa kế.

Tuy nhiên trong một số trường hợp, dù có quan hệ hôn nhân, huyết thống với người để lại di sản nhưng cá nhân vẫn không được hưởng di sản thừa kế bao gồm nhà, đất. Cụ thể:

Con không còn sống vào thời điểm thừa kế.

Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản qua đời. Như vậy, nếu tại thời điểm mở thừa kế của cha mẹ, con không còn sống hoặc chưa thành thai thì sẽ không được hưởng thừa kế.

Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng.
Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Tuy nhiên, trường hợp cha mẹ, người để lại di sản biết người thừa kế có những hành vi nêu trên nhưng vẫn để lại di sản cho họ thì họ vẫn được hưởng di sản theo di chúc.
Con không có tên trong di chúc thừa kế.

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Trường hợp cha, mẹ không để lại di chúc trước khi qua đời thì con cái sẽ được hưởng di sản của cha mẹ theo quy định tại Điều 650 và 651 Bộ luật Dân sự 2015.

Trong trường hợp cha mẹ, người để lại di sản có di chúc nhưng trong di chúc không đề cập đến việc để lại tài sản cho con, thì người con sẽ không được hưởng thừa kế bất kỳ tài sản nào (bao gồm cả nhà, đất) theo nội dung di chúc. Khoản 1 điều 644 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc như sau: Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó “Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà không có khả năng lao động”.

Do đó, con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng lao động vẫn có thể nhận di sản khi không có tên trong di chúc.

Con bị truất quyền thừa kế.

Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015 quy định người lập di chúc có quyền: Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

Như vậy, dù người thừa kế có đủ điều kiện thừa kế nhưng người để lại di sản truất quyền thừa kế ngay trong di trúc thì người thừa kế sẽ không được thừa kế di sản.
thua-ke.1
Thủ tục đăng ký sang tên Sổ đỏ khi nhận thừa kế

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày phân chia xong quyền sử dụng đất là di sản thừa kế thì người sử dụng đất phải đăng ký biến động (đăng ký sang tên) nếu không sẽ bị xử lý vi phạm hành chính.

Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ đăng ký biến động (đang ký sang tên vào sổ địa chính)

Căn cứ khoản 2 Điều 7 Thông tư 33/2017/TT-BTNMT, hồ sơ nộp khi thực hiện thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất gồm:

– Đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất theo Mẫu số 09/ĐK.

– Văn bản về thừa kế nhà đất theo quy định (di chúc, văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản từ chối nhận di sản, bản án nếu có tranh chấp,…).

Trường hợp người thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là người duy nhất thì phải có đơn đề nghị được đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của người thừa kế.

– Bản gốc Giấy chứng nhận đã cấp.

Bước 2: Nộp hồ sơ

Cách 1: Hộ gia đình, cá nhân nộp tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có nhà đất

Cách 2: Không nộp tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất

– Địa phương đã thành lập bộ phận một cửa thì nộp hồ sơ và nhận kết quả tại bộ phận một cửa.

– Địa phương chưa thành lập bộ phận một cửa thì hộ gia đình, cá nhân nộp trực tiếp tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương nơi có đất hoặc tại Chi nhánh văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đối với địa phương chưa thành lập Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai.

Bước 3. Giải quyết yêu cầu

Thời gian giải quyết: Không quá 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ; không quá 20 ngày đối với các xã miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

Thời gian trên trên không tính thời gian các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật; không tính thời gian tiếp nhận hồ sơ tại xã, thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất; không tính thời gian xem xét xử lý đối với trường hợp sử dụng đất có vi phạm pháp luật, thời gian trưng cầu giám định.

Leave a comment

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *